Tên di sản : Nhà thờ dòng họ Đinh Trọng
Tỉnh/Thành phố : Thanh Hóa
Loại di sản :
Di tích kiến trúc nghệ thuật
Sô quyết định : Số 2382/QĐ-UBND
Giới thiệu
Vị trí di tích:
Từ đường họ Đinh Trọng ở trung tâm làng Hoà Đông (Hoà Văn), ở phía Đông Bắc xã Quảng Hoà.
Từ đường họ Đinh Trọng toạ chính hướng Nam, lệch tây 100, thuộc thửa đất 355 với diện tích 655m2. Thửa đất 355, hình chữ nhật nằm ngang theo hướng Đông Tây, chiều dài 28m, chiều rộng 24m.
Phía Bắc giáp thửa đất số 221/316 (hộ bà Lê Thị Đạt) và thửa 222/755 (hộ Lê Văn Thanh).
Phía Nam giáp thửa đất 356/802 và 352/390.
Phía Đông giáp thửa đất 354/374 (hộ Đinh Trọng Cân).
Phía Tây giáp thửa đất số 360/615 (hộ Đinh Trọng Lực).
Từ đường được xây dựng lệch sang phía Đông thửa đất 355.
Khuôn viên nhà có chiều dài 10,4m, rộng 6,43m, với diện tích nhà 65,5m2. Diện tích sân dài 11m, rộng 7m, bằng 77m2. Diện tích khu vực I khu vực bảo vệ 142,5m2. Diện tích còn lại hơn 500m2 bao gồm vườn cây hoa và cây cảnh lối vào trước nhà (phía Nam); phía Tây vuông góc với nhà từ đường là nhà ngang gồm ngôi nhà 3 gian, hiện là nhà ở của trưởng họ và là nơi sinh hoạt. Phía sau nhà này là công trình phụ và vườn sau, là khu vực II. Khu vực bảo vệ và điều chỉnh xây dựng.
Mặt bằng từ đường họ Đinh Trọng:
Chiều ngang: Từ mép hè vào tim cột quân trước rộng 1,0mét, từ tim cột quan đến tim cột cái trước: 1,150m, tim cột cái trước đến tim cột cái sau 1,960m; từ tim cột cái sau đến tim cột quân sau rộng: 1,150m; từ tim cột quân sau đến mép trong tường hậu 0,650m; tường hậu dài 0,250m.
Chiều dài: Từ mép ngoài vào tim cột quân trước gian 1: 0,450m (tường hồi dày 0,250m); từ tim cột vì 1 đến tim cột vì 2 là: 1,740m (gian 1) từ tim cột vì 2 đến tim cột vì 3 là 2,180m (gian 2), từ tim cột vì 3 đến tim cột vì 4 là: 2,560m (gian thứ 3 - gian giữa); từ tim cột vì 4 đến tim cột vì 5 là: 2,190m; từ tim cột đến mép ngoài tường hồi là 1,260m. Tổng chiều dài 10,40m.
Kết cấu nhà: Nhà kết cấu 4 gian, 5 vì cột kèo gỗ. Kết cấu vì lại chia theo 3 loại vì cột kèo.
Vì 1 kết cấu đơn giản: Chỉ có 2 cột quân: Trước và sau trên cột quân có quá giang, kèo đón lá, 2 trụ ngồi trên quá giang (Cột các trốn), trước sau có bẩy kẻ.
Vì thứ 2 và vì thứ 5 kết cấu giống nhau gồm 2 cột cái, 2 cột quân, cột hiện sau đã tháo gỡ xây tường hậu.
Phía trước: Bẩy trước, chồng rường nách dưới: Xà nách, rường nách, trụ đứng, rường dài, rường vừa, rường ngắn.
Phía sau: Kẻ dưới nối cột quân sau với cột hiên sau (nay tháo bỏ cột hiên sau xây tường nách với tường hậu. Kẻ ngồi trên tường nách và gác đuôi kẻ lên tường hậu. Nách trên (sau) chồng rường con so như phía trước gồm xà nách, rường nách, trụ đứng, rường dài, rường vừa, rường ngắn.
Trên nóc là hệ thống con rường gồm:
Hai rường nách dài (dưới), hai trường nách ngắn (trên).
Trụ tròn (Hai đầu trụ tròn có đấu trên dưới), dưới đấu trục là câu đầu, trên đầu trụ tròn là bụng lợn, trên bụng lợn là đấu thượng lương, trên đấu thượng lương là guốc thượng lương.
Ngăn cắt giữa các con chồng, con rường có hệ thống đấu ở hai vì hồi (vì 2, vì 5) giữa hai trụ tròn có ván dừng giữa bụng lợn và câu đầu, dưới câu đầu và vách đố lụa.
Hai vì giữa (vì 3, vì 4) bên dưới phía sau kẻ chuyền, gồm:
Kẻ dưới (liên kết cột hiên với cột quân sau - nay bỏ cột hiên sau đuôi kẻ gác lên tường hậu), kẻ giữa (liên kết cột quân với cột cái sau bằng xà nách, trên xà nách có kẻ, đầu dưới kẻ sàm vào lưng xà nách, đầu trên chui qua cột cái có nghe đỡ câu đầu) phía trước có bẫy trước, nghé bẫy chui qua đầu cột quân, nghé đỡ bụng quá giang. Trên lưng quá giang có kẻ - kẻ sàm vào lưng quá giang, đầu trên kẻ trung chui qua trụ (cột cái trốn) nghé đỡ bụng câu đầu. Trên nóc vì có hệ thống rường, mỗi bên có 2 rường nách, rường nách được sàm vào trụ tròn, trên đầu trục tròn (dưới và trên có đấu bát), trên đấu có bụng lợn. Trên lưng bụng lợn có đấu đỡ thượng lương, trên đấu thượng lương có guốc thượng lương, đỡ thượng lương.
Kết cấu bộ vì nóc, 4 vì tương tự nhau. Hai vì hồi có ván đứng giữa hai trụ tròn. Trụ non và lưng câu đầu với bụng lợn hoạ tiết hoa văn ở các đầu rường đều tương tự nhau, lá hoa văn xoắn kiểu đầu nghê, uốn lượn uyển chuyển đầu đội hệ thống đòn tay (luồng). Hoa văn ở bụng câu đầu nách nghe đường nét uốn lượn mềm mại, uyển chuyển, (câu đầu hình tròn vẹt bụng).
Con đường, kẻ, nách trước sau, quá giang, xà dọc được coi chỉ ống sống dừa, sống mây hai mặt bên, rường quá giang, câu đầu, bụng lợn mặt dưới được xoi, chỉ đục hoa văn, hoa lá cách điệu.
Bẫy trước, cả 5 bẫy trước bằng loại gỗ tốt được chạm hoa văn theo một phong cách hoa lá hoá long, ở cả 2 mặt đường nét mềm mại, đao mác tù theo phong cách Lê muộn.
Số đo một số cấu kiện: Thượng lương 140 x 140; bụng lợn h 210 R250. Trụ tròn h300 x 2R 180; đấu trụ 250 x 210; câu đầu h 195 x R210; trụ h 950 x 2R 230.
Đấu trụ: 340 x 300; quá giang - xà nách h 200 x R 220; xà thượng h150xR120; và đại h190 x R190; xà quân: 170 x 180; cột cái h 3530; chu vi 780; cột quân h 2640 x chu vi 710 con rường 160 x 170; 170 x 170, rường nóc h650. Bạo đứng 140+70 x 1720 bạo ngang trên 210; ván 62 đố 60; ngạch dưới 60; ván ngạch 170; ngưỡng ngạch h100; ván ngưỡng 120; đố ngang h70.
Hệ thống vách đổ lụa (ở 2 vì hồi: vì 2 và 5).
Hệ thống vách đố lụa được xoi chỉ ở các đố: ở giữa xoi ống đố sống mây lượn bán tròn, hai bên có chỉ nhỏ. Ống đố đầu trên vát nhọn, bên trong có mộng gá vào khung tranh ngang, trên khung tranh ngang và hai khung tranh dọc hai bên được xoi gờ chỉ mép trong, gân chỉ nổi, góc mép giao nhau ghép mộng mòi. Phía trong giữa mặt bên khung tranh và các đố dọc được coi gờ ghép gỗ.
Hệ thống vách đố lụa được thể hiện vách đố 2 hồi ở vị trí giữa 2 cột cái, cả ở trên và dưới (xà lòng với câu đầu, dưới xà lòng với ngưỡng dưới). Dưới ngưỡng và ngạch hồi có ván ngạch ngưỡng. Ở sau giữa cột cái sau và cột quân, trên là xà nách sau dưới là ngưỡng nách. Dưới ngưỡng là ngạch - giữa ngạch và ngưỡng có ván ngạch. Ngày xưa còn hệ thống vách đố lụa phía sau, đến năm 1999, do ngạch và cột hiên sau bị mối xông nên đã tháo bỏ ngạch cột và vách đố sau, thay vào đó là tường hậu. Ở nách trước (giữa cột cái trước và cột quân trước) có hệ thống cửa thông phòng cổ. Trên ngưỡng trên cửa có khuôn tranh, trong tranh chia làm 6 Ô, 3 Ô trên, 3 ô dưới: Ba ô trên gồm 2 ô đứng chạm bình 2 cây tùng hoá long nổi, ở giữa chạm cây - cành lá cúc hoá long nổi, 3 ô dưới: 2 ô 2 đầu vuông chạm hình hoa chanh 4 cánh nổi ô giữa hình chữ nhật nằm chạm hoạ tiết hoa lá dây leo cách điện uốn lượn dọc theo chiều dài ô.
Trong khuôn tranh được soi gờ chỉ nổi, mối tiếp giáp ghép mộng mòi, bức chạm trên 2 cửa buồng hai hồi (vì 2, vì 5) đặc biệt có giá trị.
Hệ thống ba bức xuân hoa, ba bộ cửa bức bàn, ba ngạch (địa thu).
Ba bức xuân hoa được xoi, tiện chạm khắc và ghép mộng kết cấu dọc ngang hài hoà với hệ thống con tiện, các đố dọc, ngang, các bức ván chạm thủng. Trong khung xoi gờ chỉ nổi, phẳng thắng gân chỉ tròn, sống mây khoẻ nhưng rất mềm mại.
Hệ thống ba bộ cửa bức bàn, cửa bức bàn xoi chỉ nổi mặt ngoài, đố mặt trong. Trên các gân gờ chỉ nổi nét soi phẳng, thẳng nhưng rất mềm mại, nét ghép góc mộng mòi đã trải năm tháng mà vẫn khít - chắc mộng. Hệ thống cửa còn thể hiện tinh xảo ở bạo, khung nổ dọc ngang được xoi gờ chỉ ghép góc.
Hệ thống địa thu: nhà 3 gian chính, (gian 2, gian 3, gian 4) còn gian đầu có ngạch (địa thu) nhưng địa thu để trơn không xoi hoa văn gờ chỉ. Riêng gian đầu, địa thu để trơn, khung cửa không có mà chỉ có cửa ván, (cửa bướm). Ba ngạch tiếp theo được đục hoa văn chữ triện nổi, gờ chỉ nổi, đường nét hài hoà, mềm mại.
Nhận xét phần kiến trúc:
Kiến trúc từ đường (nhà thờ) họ Định Trọng là một công trình kiến trúc gỗ dân gian đồng bằng Bắc trung bộ còn tương đối nguyên vẹn bộ vì (ở 4 vì: 2, 3, 4, và 5) gồm hệ thống guốc thượng lương, đấu thượng lương, bụng lợn, đấu trụ tròn.
Rường 4 vì nóc, rường nách trước, trường nách sau (hai vì hồi), hệ thống 5 bẫy trước, kẻ bẫy sau (hai vì hồi) kẻ chuyền hai vì giữa cả trước và sau.
Các bức cốn chạm ở hai vì (vì 2 và vì 5) còn tương đối nguyên vẹn, hoa văn mềm mại, nét đao nói chung tù theo phong cách Lê (muộn) ở các vị trí: bụng, mép quá giang, xà nách trước sau, má bẫy, kẻ, bụng câu đầu. Hệ thống vách đố lụa ở hai hồi. Các bức chạm ở vị trí trên xà vách trước sau. Dưới xà nách trước trên cửa buồng (trong khung tranh) là những bức chạm còn nguyên gốc, còn nguyên vẹn, đặc biệt có giá trị. Ba bức xuân hoa, ba chuông cửa bức bàn, ba ngạch (địa thu) cửa bằng gỗ được chạm khắc hoa văn xoi ghép gờ chỉ.
Phần đồ thờ được chạm khắc:
Bức đại tự: “Quan Đức Miếu” là bức chạm thủng hoa văn ốp trên nẹp chỉ xoi ống bên ngoài, bên trong xoi chỉ nổi nhỏ. Nền sơn đen chữ thếp vàng (nét chữ khải chân; kích thước dài: 1,81m cao, rộng 0,91m).
Sập chân quỳ: chạm trổ hoa văn theo thức kiến trúc cuối thế kỷ XVIII, phần chân chạm bong, dạ yến cơ bản chạm bóng và một vài chi tiết chạm thủng. Các ô trên sập đều chạm thủng và lồng ghép trong khung được xoi gờ chỉ nổi các bức chạm tứ linh tứ quý chen lẫn nhau (kích thước sập dài 1,745m, rộng 0,815m, cao 0,765m).
Trên sập là võng chủ (cấu tạo như 1 chiếc long cung) dùng trong lúc rước vong, đưa ma, không ai thờ. có kích thước dài 1,020m, rộng 0,820m, cao 1,520m võng chủ có chân quỳ, bốn mặt có các đồ dọc ngang, soi gờ chỉ, các góc có các bức chạm hoa văn.
Sập hương án chính cao 0,382, rộng 1,045m, dài 2,130m được chạm hoa văn nổi ở các niềm yến và chân quỳ. Được xoi gờ chỉ nổi, sơn son. Trên sập bài trí 3 long ngài cổ.
Sập dưới: bào trơn ghép mộng không có hoa văn, kích thước cao 0,45m, dài 2,3m rộng 1,143m.
Bộ long ngai giữa đã được sửa chữa, sơn lại kích thước cao: 0,940m, dài 0,560, rộng 0,435.
Long ngai bên hữu: là một long ngai cổ còn tương đối nguyên vẹn (kích thước cao 0,67m, dài 0,415, rộng (sâu) 0,35m.
Long ngai bên tả: Long ngai cổ bị long 1 bên trụ tay ngai (kích thước cao 0,67m, dài 0,451m, rộng (sâu) 0.35).
Hòm đựng sắc cổ: cao 0,155m, rộng 0,16m, dài 0,76m.
Khay mịch chạm khắc hoa văn dài: 0,45m, rộng 0,22m, cao 0,215m bệ long ngai dà 0,475; rộng 0,405, cao 0,24m bệ chạm khắc hoa văn được sơn thếp.
Hương án giữa: dài 1,62m, rộng 0,72m, cao 0,965m.
Mâm bồng tròn cao: 0,18m, đường kính 0,385
Hương án tiền: dài 1,86m, rộng 0,87m, cao 1,2m
Bộ tam sự bằng đồng (lư cao: 0,62m, nến cao 0,47m).
Đôi hạc gỗ: Cao 0,80m.
Bộ chấp kích (bát biểu: đầu bằng đồng).
Đôi câu đối:
“Lý giang Đông chú thi phong dĩ
Trinh Thạch văn truyền lễ đĩnh minh”.
Theo các cụ cho biết đây là đôi câu đối mới soạn gần đây, còn đôi câu đối xưa là:
“Mạch tòng Gia Viễn, nguyên lưu thuỷ
Đối diện Trinh Thư cảnh thế hồng”
Hoặc đối:
“Ngô tộc bản phi ti xuất tự Hoa Lư danh thắng động
Địa linh sinh nhân kiệt bằng ư Đông Thổ Thái bình dân”.
Lư hương và bình hương bằng đất nung Cổ.
Tam sơn bằng gỗ sơn son chạm hoa văn tứ linh. (long, ly, quy, phượng) chen tứ quý (tùng, trúc, cúc, mai).
Tam sơn kích thước: cao 1,2m, rộng 1,5m. Tam sơn đặt ở sau liệu bát cống.
Nhìn chung đồ tại nhà thờ (từ đường) còn phong phú về loại hình, có nhiều nét độc đáo về mỹ thuật, nghệ thuật chạm khắc.
Văn tự Hán nôm:
Tại di tích còn một cuốn gia phả bằng chữ Hán.
Soạn khoảng năm 1800 và được sao lại vào niên hiệu Bảo Đại thứ 13 (1939).
3 đạo sắc phong thời Lê niên hiệu Cảnh Hưng thứ 44 (1783) phong cho Đinh Trọng Tuấn người xã Văn Trinh, huyện Ngọc Sơn. Nội dung: phong cho Đinh Trọng Tuấn từ chức Phó Thiên Hộ lên Thiên Hộ là bậc Kiệt trung tướng quân, hiệu lệnh Ty Kỳ bài tráng sĩ, Vân Kỵ Uý. Sắc phong lên chức Kim tổng tri đúng là bậc trì uy tướng quân thủ ngự Tổng tri Kỳ Uý.
Trước sân từ đường (nhà thờ) họ Đinh Trọng mới được phục hồi 4 cột trụ xây bằng gạch trang trí hài hoà.
Loại di tích:
Nhà thờ (từ đường) họ Đinh Trọng làng Hoà Đông xã Quảng Hoà là di tích lịch sử, văn hóa, nơi lưu giữ các tư liệu lịch sử, nơi thờ cúng những con người có vai trò trong lịch sử có công với nước với dân. Đồng thời là di tích nhà cổ có giá trị về kiến trúc nghệ thuật dân gian cuối thế kỷ XVIII ở vùng đồng bằng ven biển Thanh Hoá.